Trong thế giới kinh doanh, theo bạn: Cạnh tranh quan trọng hay hợp tác quan trọng?
Xu hướng tự nhiên của con người là chọn cạnh tranh hơn là hợp tác. Xu hướng này càng được củng cố và củng cố bởi sự phổ biến của học thuyết Darwin ủng hộ “sự sống sót của kẻ mạnh nhất” và lý thuyết về chọn lọc tự nhiên.
Chúng ta thấy những sự phát triển và tiến bộ hình thành, phần lớn đều có bắt nguồn từ cạnh tranh. Cạnh tranh giúp nâng tầm và phát huy những điều tốt nhất của chúng ta, khiến chúng ta khám phá và sử dụng điểm mạnh của mình để tồn tại, phát triển. Nếu không cạnh tranh, sẽ dễ dẫn đến sự trì trệ
Nhưng đối với bất kỳ ai không coi cuộc sống là một trò chơi có tổng bằng 0, hợp tác được ưu tiên hơn cạnh tranh.
Cuộc sống là một cuộc hành trình hơn là một cuộc đua. Mỗi cá nhân đều có năng khiếu, mỗi tổ chức đều có điểm mạnh, mỗi một đội nhóm đều có sở trường về một mặt nào đó để có thể sống một cuộc sống trọn vẹn và phong phú. Đó là niềm tin cơ bản rõ ràng.
Nền kinh tế hợp tác hoàn toàn cho phép việc đánh giá cao hơn những điểm mạnh và điểm yếu mà mọi người có, vì vậy họ có thể dành nhiều thời gian hơn cho những điểm mạnh của mình. Đó là điều cao quý và lý tưởng. Thực sự là vậy.
Chúng ta thấy trên khắp thế giới, trong suốt lịch sử và hiện tại, rằng một số nền văn hóa và nền kinh tế phát triển thì sản sinh và hình thành nhiều nhiều doanh nhân hơn. Chúng ta đang nói nên doanh nhân với tinh thần doanh chủ đúng nghĩa – những người thực sự biết cách thoát ra khỏi vùng an toàn của mình, khơi nguồn cảm hứng để hình thành và đem sản phẩm dịch vụ của tổ chức phát triển vượt ra ngoài phạm vi quốc gia, mở rộng và duy trì nguồn cung – cầu thực thụ – những người biết “biến” cạnh tranh thành hợp tác.
Cạnh tranh và hợp tác về bản chất thật ra không đối nghịch nhau. Cạnh tranh là cần thiết để hợp tác tồn tại.
Cạnh tranh tồn tại bất cứ khi nào các lựa chọn thay thế được so sánh.
Cạnh tranh, theo cách hiểu đơn giản và rộng nhất, là sự so sánh. Bất cứ khi nào lựa chọn được thực hiện, cần phải so sánh giữa các lựa chọn thay thế. Những lựa chọn thay thế đó đang cạnh tranh với nhau. Khi bạn đưa ra lựa chọn, một trong những lựa chọn thay thế này sẽ “chiến thắng” sự cạnh tranh giữa các lựa chọn thay thế này.
Trước khi hợp tác diễn ra, bạn phải quyết định hợp tác với ai và hợp tác với họ như thế nào. Bạn không thể hợp tác với mọi người theo mọi cách có thể tưởng tượng được. Vì vậy, bạn chọn bằng cách so sánh giữa các lựa chọn thay thế cạnh tranh. Cho đến khi bạn đưa ra lựa chọn đó, không thể hợp tác được.
Đối lập thực sự của cạnh tranh là không có lựa chọn thay thế, một sự lựa chọn duy nhất mà không có bất kỳ sự cạnh tranh nào. Khi không có sự lựa chọn thì không có cạnh tranh nhưng cũng không có sự hợp tác. Nếu bạn không có sự lựa chọn thì chỉ có sự ép buộc.
Thuật ngữ “hợp tác” ngụ ý rằng bạn có quyền lựa chọn
Cả cạnh tranh và hợp tác đều quan trọng cho sự tiến bộ của thế giới nói chung và trong lĩnh vực kinh doanh nói riêng
Cạnh tranh có thể thúc đẩy sự đổi mới và cải tiến, trong khi hợp tác có thể giúp giải quyết các vấn đề chung và đạt được các mục tiêu chung.
Cạnh tranh có thể là một động lực mạnh mẽ mang lại điều tốt đẹp. Khi mọi người hoặc tổ chức cạnh tranh, họ có động lực đổi mới và cải tiến để thành công. Điều này có thể dẫn đến các sản phẩm, dịch vụ và công nghệ mới mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Ví dụ, sự cạnh tranh giữa Apple và Samsung đã dẫn đến sự phát triển của một số điện thoại thông minh sáng tạo nhất trên thị trường.
Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể mang tính hủy diệt. Khi mọi người hoặc tổ chức cạnh tranh quá quyết liệt, họ có thể sẵn sàng đi đường tắt hoặc gian lận để giành chiến thắng. Điều này có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực, chẳng hạn như sản phẩm có chất lượng thấp hơn, thiệt hại về môi trường và bất ổn xã hội. Ví dụ, sự cạnh tranh giữa các công ty dược phẩm đã dẫn đến giá thuốc kê đơn cao ở một số quốc gia.
Hợp tác cũng rất quan trọng cho sự tiến bộ của thế giới. Khi mọi người hoặc tổ chức hợp tác, họ có thể tập hợp các nguồn lực và chuyên môn của mình để giải quyết các vấn đề chung. Điều này có thể dẫn đến các giải pháp hiệu quả hơn mang lại lợi ích cho tất cả mọi người tham gia. Ví dụ, sự hợp tác giữa các quốc gia về biến đổi khí hậu đã dẫn tới sự phát triển các công nghệ mới nhằm giảm phát thải khí nhà kính.
Tuy nhiên, sự hợp tác cũng có thể khó đạt được. Mọi người hoặc tổ chức có thể có những mối quan tâm hoặc mục tiêu khác nhau, điều này có thể gây khó khăn cho việc đạt được thỏa thuận. Ví dụ, sự hợp tác giữa các quốc gia về thương mại có thể gặp khó khăn vì các quốc gia có thể có những lợi ích khác nhau về thuế quan và tiếp cận thị trường.
Cuối cùng, cách tốt nhất để đạt được tiến bộ chung là thông qua sự kết hợp giữa cạnh tranh và hợp tác. Khi mọi người và các tổ chức cạnh tranh để đổi mới và cải tiến cũng như khi họ hợp tác để giải quyết các vấn đề chung thì tất cả đều được hưởng lợi.
Dưới đây là một số nội dung chứng minh về việc cạnh tranh và hợp tác đã dẫn đến tiến bộ thế giới như thế nào:
- Cạnh tranh: Sự cạnh tranh giữa các công ty trong ngành máy tính đã dẫn đến sự phát triển của các loại máy tính mạnh hơn và giá cả phải chăng hơn.
- Hợp tác: Sự hợp tác giữa các quốc gia trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu đã dẫn tới sự phát triển các công nghệ mới nhằm giảm phát thải khí nhà kính.
- Cạnh tranh: Sự cạnh tranh giữa các vận động viên tại Thế vận hội đã dẫn đến những kỷ lục mới được thiết lập và mức độ thành tích thể thao mới.
- Hợp tác: Sự hợp tác giữa các quốc gia trong cuộc chiến chống đói nghèo đã dẫn đến việc phát triển các chương trình và chính sách mới giúp đưa hàng triệu người thoát nghèo.
Trong tương lai, có khả năng cả cạnh tranh và hợp tác sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ.
Chúng ta hãy xem qua một ví dụ điển hình của việc chọn lựa hợp tác thay vì cạnh tranh, của việc chọn nhau là đối tác thay vì là đối thủ/đối đầu:
- Vinacacao, doanh nghiệp 20 năm tự hào là công ty dẫn đầu thị trường Việt về dòng sản phẩm chocolate từ ca cao và có mặt tại 20 quốc gia trên thế giới, thị trường lớn nhất là ở Mỹ, Hàn Quốc, Malaysia… Ngoài xuất khẩu truyền thống, bán hàng cho các nhà nhập khẩu nước ngoài dưới hình thức co-branding (đồng thương hiệu) và độc quyền thương hiệu, Vinacacao còn đa dạng hóa nguồn nguyên liệu bằng các chương trình hợp tác với nông dân trồng cây cacao và đối tác nước ngoài.
- Bỉ là quốc gia dẫn đầu thế giới về năng lực sản xuất cũng như chất lượng của chocolate. Tại Bỉ tập trung rất nhiều thương hiệu chocolate nổi tiếng hàng đầu của thế giới. Trong đó phải kể đến Công ty Libeert, một chuyên gia sản xuất chocolate cao cấp. Libeert được thành lập vào năm 1923 bởi Joseph Dequeker. Với niềm đam mê chocolate bất tận, sau 100 năm hình thành và phát triển, Libeert đã tạo ra những loại sản phẩm tuyệt vời, sở hữu hương vị ngon khó cưỡng. Libeert tập trung vào sự bền vững và không ngừng đổi mới. Chính vì vậy, họ luôn cố gắng nghiên cứu và cho ra đời những sản phẩm chocolate thơm ngon, thân thiện với người tiêu dùng và môi trường
- Lần đầu tiên, hai công ty sản xuất thành phẩm, cùng ngành chocolate, đến từ hai quốc gia và hai châu lục hợp tác để trao đổi thị trường.
Hợp tác song phương (Mutual Trade Agreement còn gọi là MTA) đã diễn ra thành công tốt đẹp.
Đây không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị trường cho hai doanh nghiệp, mở ra một hình thức hợp tác mới cho các công ty sản xuất thành phẩm – mua để bán, bán để mua, mà còn tạo cơ hội phát triển cho ngành cacao và người trồng cacao tại Việt Nam; đồng thời mở ra triển vọng xuất khẩu cacao và chocolate thành phẩm mang thương hiệu Việt Nam sang châu Âu, thị trường tiêu dùng và sản xuất chocolate lớn nhất toàn cầu hiện nay.
Dù chọn cạnh tranh hay hợp tác, chúng ta cũng hãy chọn cạnh tranh và hợp tác với tiêu chuẩn và tiêu chí chất lượng làm đầu, tin chắc, khi kiên trì theo đuổi điều này và duy trì được niềm tin cho công cuộc kinh doanh tốt đẹp, giá trị mà bạn nhận được sẽ tương xứng với điều mà bạn kỳ vọng. Khi thực sự tin tưởng vào điều gì đó tốt đẹp, ta sẽ có sự đồng cảm và học cách hợp tác, ta sẽ bỏ qua cái tôi của mình để cố gắng phát huy nó.
Cạnh tranh để đạt được hiệu quả ngắn hạn và hợp tác để đạt được hiệu quả lâu dài.